F.W.Taylor, cha đẻ của chuyên môn hoá quản lý
[ 2009-09-01 03:30:28 | Tác giả: bvl91 ]
“Mỗi nhân viên được gắn chặt với một vị trí làm việc theo nguyên tắc chuyên môn hoá” - đó là công thức thành công của rất nhiều doanh nghiệp ngày nay.
Dường như nguyên lý quản lý này đã đặt nền móng đầu tiên cho thành công cho kinh doanh với những đóng góp sâu rộng đến toàn bộ hoạt động quản lý của doanh nghiệp. Và người “đứng sau” công thức thành công này là Fredericl Winslow Taylor, cha đẻ của phương pháp trên.
Taylor sinh ra vào đầu thể kỷ 20, những năm mà nền kinh tế Mỹ có biến động lớn, rất cần những nhân tố mới cho sự thành công. Taylor xuất thân là một công nhân cơ khí, trải qua các chức vụ đốc công, kỹ sư trưởng, tổng công trình sư. Với kinh nghiệm dày dặn của mình, ông đã phân tích quá trình vận động thao tác) của công nhân, nhân viên, nghiên cứu quá trình lao động hợp lý (với các động tác không trùng lặp, tốn ít thời gian và sức lực) để đạt được năng suất cao. Đó là sự hợp lý hoá lao động, theo nghĩa rộng là tổ chức lao động một cách khoa học. Với các công trình nghiên cứu “quản lý nhà máy”, “Những nguyên lý quản lý khoa học”, Taylor đã tạo nền móng cho một xu hướng Quản lý theo khoa học, mở ra “kỷ nguyên vàng” trong quản lý ở Mỹ. Phương pháp này sau đó được Henry Ford ứng dụng trong việc lập ra hệ thống sản xuất theo dây chuyền dài 24 km trong nhà máy ôtô con đạt công xuất 7000 xe mỗi ngày.
Nội dung phương pháp quản lý của Taylor dựa trên các nguyên tắc sau:
- Xác định một cách khoa học khối lượng công việc hàng ngày của công nhân viên với các thao tác và thời gian cần thiết để bố trí quy trình công nghệ phù hợp (chia nhỏ các phần việc) và xây dựng định mức cho từng phần công việc. Định mức được xây dựng qua thực nghiệm (bấm giờ từng động tác).
- Lựa chọn công nhân viên thành thạo từng việc, thay cho công nhân viên “vạn năng” (biết nhiều việc song không thành thục). Các thao tác được tiêu chuẩn hoá cùng với các thiết bị, công cụ, vật liệu cũng được tiêu chuẩn hoá và môi trường làm việc thuận lợi. Mỗi công nhân được gắn chặt với một vị trí làm việc theo nguyên tắc chuyên môn hoá cao độ.
- Thực hiện chế độ trả lương (tiền công) theo số lượng sản phẩm (hợp lệ về chất lượng) và chế độ thưởng vượt định mức nhằm khuyến khích nỗ lực của công nhân.
- Phân chia công việc quản lý, phân biệt từng cấp quản lý. Cấp cao tập trung vào chức năng hoạch định, tổ chức và phát triển kinh doanh, còn cấp dưới làm chức năng điều hành cụ thể. Thực hiện sơ đồ tổ chức theo chức năng và theo trực tuyến; tổ chức sản xuất theo dây chuyền liên tục.
Với các nội dung trên, năng suất lao động tăng vượt bậc, giá thành thấp; kết quả cuối cùng là lợi nhuận cao để cả chủ và thợ đều có thu nhập cao.
Qua các nguyên tắc kể trên, có thể rút ra các ưu thế chính của công thức quản lý này đó là: tối ưu hoá quá trình sản xuất nhờ hợp lý hoá lao động, xây dựng định mức lao động; tiêu chuẩn hoá phương pháp thao tác và điều kiện tác nghiệp; phân công chuyên môn hoá đối với lao động của công nhân và đối với các chức năng quản lý và cuối cùng là tư tưởng “con người kinh tế” qua trả lương theo số lượng sản phẩm để kích thích tăng năng suất và hiệu quả sản xuất.
Từ những ưu thế đó đã mở ra cuộc cải cách về quản lý doanh nghiệp, tạo được những bước tiến dài theo hướng quản lý một cách khoa học trong thế kỷ 20 cùng với những thành tựu lớn trên thương trường của nhiều doanh nghiệp.
Tuy nhiên, nhiều người cũng đã nêu lên mặt trái đối với phương thức quản lý này. Trước hết, với định mức lao động thường rất cao đòi hỏi công nhân phải làm việc cật lực. Hơn nữa, người thợ bị gắn chặt với dây chuyền sản xuất tới mức biến thành những “công cụ biết nói”, bị méo mó về tâm – sinh lý và như vậy là thiếu tính nhân bản. Tuy nhiên, tương tự nhiều thành tựu khác của khoa học kỹ thuật, vấn đề nằm ở chỗ người sử dụng với mục đích nào. Chính vì thế trong khi nhiều nhà kinh tế phê phán đó là “khoa học vắt mồ hôi công nhân” nhưng họ vẫn đánh giá rất cao nó như một phương pháp tổ chức lao động tạo được năng suất cao, cần được vận dụng trong quá trình phát triển kinh doanh của các doanh nghiệp.
Từ tinh thần đó đã thu hút được rất nhiều doanh nghiệp ứng dụng phương pháp quản lý mới này, thu hút được nhiều nhà quản lý có tài năng tham gia “Hiệp hội Taylor” để hoàn thiện và phát triển nó. Qua đó đã hạn chế tính cơ giới của tư tưởng “con người kinh tế”, đặt nhân tố con người lên trên trang bị kỹ thuật, nhân bản hoá quan hệ quản lý, phát huy động lực vật chất và tinh thần với tính công bằng cao hơn và đề cập quan hệ hợp tác hoá giữa người quản lý với công nhân.
Có thể nói, Taylor đã đề cập đến công việc quản lý trong doanh nghiệp với tầm vi mô. Tuy nhiên, phương pháp này của ông đã đặt nền móng rất cơ bản cho phương pháp quản lý nói chung, đặc biệt là về phương pháp làm việc tối ưu, có hiệu quả cao, tạo động lực trực tiếp cho nhân viên và việc phân cấp quản lý.
Bài Viết Ngẫu Nhiên:
Phần Mềm Danh Ngôn
Linh Vương Truyền Kỳ - Tựa game hấp dẫn 2014
Gặp gỡ giữa đám đông
I believe in my self!
Bộ sưu tập truyện tranh Lucky Luke
1 Skin Home Mang Phong Cách Khá Hiện Đại
Nếu bỗng dưng ta chán nhau
văn toàn chữ "T" thôi nè!!!
Informatik AppendTIFF v2.3.3401
Dấu lặng
Dường như nguyên lý quản lý này đã đặt nền móng đầu tiên cho thành công cho kinh doanh với những đóng góp sâu rộng đến toàn bộ hoạt động quản lý của doanh nghiệp. Và người “đứng sau” công thức thành công này là Fredericl Winslow Taylor, cha đẻ của phương pháp trên.
Taylor sinh ra vào đầu thể kỷ 20, những năm mà nền kinh tế Mỹ có biến động lớn, rất cần những nhân tố mới cho sự thành công. Taylor xuất thân là một công nhân cơ khí, trải qua các chức vụ đốc công, kỹ sư trưởng, tổng công trình sư. Với kinh nghiệm dày dặn của mình, ông đã phân tích quá trình vận động thao tác) của công nhân, nhân viên, nghiên cứu quá trình lao động hợp lý (với các động tác không trùng lặp, tốn ít thời gian và sức lực) để đạt được năng suất cao. Đó là sự hợp lý hoá lao động, theo nghĩa rộng là tổ chức lao động một cách khoa học. Với các công trình nghiên cứu “quản lý nhà máy”, “Những nguyên lý quản lý khoa học”, Taylor đã tạo nền móng cho một xu hướng Quản lý theo khoa học, mở ra “kỷ nguyên vàng” trong quản lý ở Mỹ. Phương pháp này sau đó được Henry Ford ứng dụng trong việc lập ra hệ thống sản xuất theo dây chuyền dài 24 km trong nhà máy ôtô con đạt công xuất 7000 xe mỗi ngày.
Nội dung phương pháp quản lý của Taylor dựa trên các nguyên tắc sau:
- Xác định một cách khoa học khối lượng công việc hàng ngày của công nhân viên với các thao tác và thời gian cần thiết để bố trí quy trình công nghệ phù hợp (chia nhỏ các phần việc) và xây dựng định mức cho từng phần công việc. Định mức được xây dựng qua thực nghiệm (bấm giờ từng động tác).
- Lựa chọn công nhân viên thành thạo từng việc, thay cho công nhân viên “vạn năng” (biết nhiều việc song không thành thục). Các thao tác được tiêu chuẩn hoá cùng với các thiết bị, công cụ, vật liệu cũng được tiêu chuẩn hoá và môi trường làm việc thuận lợi. Mỗi công nhân được gắn chặt với một vị trí làm việc theo nguyên tắc chuyên môn hoá cao độ.
- Thực hiện chế độ trả lương (tiền công) theo số lượng sản phẩm (hợp lệ về chất lượng) và chế độ thưởng vượt định mức nhằm khuyến khích nỗ lực của công nhân.
- Phân chia công việc quản lý, phân biệt từng cấp quản lý. Cấp cao tập trung vào chức năng hoạch định, tổ chức và phát triển kinh doanh, còn cấp dưới làm chức năng điều hành cụ thể. Thực hiện sơ đồ tổ chức theo chức năng và theo trực tuyến; tổ chức sản xuất theo dây chuyền liên tục.
Với các nội dung trên, năng suất lao động tăng vượt bậc, giá thành thấp; kết quả cuối cùng là lợi nhuận cao để cả chủ và thợ đều có thu nhập cao.
Qua các nguyên tắc kể trên, có thể rút ra các ưu thế chính của công thức quản lý này đó là: tối ưu hoá quá trình sản xuất nhờ hợp lý hoá lao động, xây dựng định mức lao động; tiêu chuẩn hoá phương pháp thao tác và điều kiện tác nghiệp; phân công chuyên môn hoá đối với lao động của công nhân và đối với các chức năng quản lý và cuối cùng là tư tưởng “con người kinh tế” qua trả lương theo số lượng sản phẩm để kích thích tăng năng suất và hiệu quả sản xuất.
Từ những ưu thế đó đã mở ra cuộc cải cách về quản lý doanh nghiệp, tạo được những bước tiến dài theo hướng quản lý một cách khoa học trong thế kỷ 20 cùng với những thành tựu lớn trên thương trường của nhiều doanh nghiệp.
Tuy nhiên, nhiều người cũng đã nêu lên mặt trái đối với phương thức quản lý này. Trước hết, với định mức lao động thường rất cao đòi hỏi công nhân phải làm việc cật lực. Hơn nữa, người thợ bị gắn chặt với dây chuyền sản xuất tới mức biến thành những “công cụ biết nói”, bị méo mó về tâm – sinh lý và như vậy là thiếu tính nhân bản. Tuy nhiên, tương tự nhiều thành tựu khác của khoa học kỹ thuật, vấn đề nằm ở chỗ người sử dụng với mục đích nào. Chính vì thế trong khi nhiều nhà kinh tế phê phán đó là “khoa học vắt mồ hôi công nhân” nhưng họ vẫn đánh giá rất cao nó như một phương pháp tổ chức lao động tạo được năng suất cao, cần được vận dụng trong quá trình phát triển kinh doanh của các doanh nghiệp.
Từ tinh thần đó đã thu hút được rất nhiều doanh nghiệp ứng dụng phương pháp quản lý mới này, thu hút được nhiều nhà quản lý có tài năng tham gia “Hiệp hội Taylor” để hoàn thiện và phát triển nó. Qua đó đã hạn chế tính cơ giới của tư tưởng “con người kinh tế”, đặt nhân tố con người lên trên trang bị kỹ thuật, nhân bản hoá quan hệ quản lý, phát huy động lực vật chất và tinh thần với tính công bằng cao hơn và đề cập quan hệ hợp tác hoá giữa người quản lý với công nhân.
Có thể nói, Taylor đã đề cập đến công việc quản lý trong doanh nghiệp với tầm vi mô. Tuy nhiên, phương pháp này của ông đã đặt nền móng rất cơ bản cho phương pháp quản lý nói chung, đặc biệt là về phương pháp làm việc tối ưu, có hiệu quả cao, tạo động lực trực tiếp cho nhân viên và việc phân cấp quản lý.
**************** Hãy cùng chia sẻ với bạn bè bằng cách ****************
Copy đường link dưới đây gửi đến nick yahoo bạn bè! |
Hiện chưa có lời bình nào cho bài viết này.