LỜI ƯỚC THỀ TRĂM NĂM
[ 2009-07-11 04:43:05 | Tác giả: bvl91 ]
Cánh đồng cát nắng cháy rộng mênh mông và dường như kéo dài đến vô tận. Những con người đang lếch thếch nhấc từng bước, kéo lê chân mệt mỏi thành những vệt dài đâm xiên chéo vào nhau như những đường chỉ rối.
Dưới những chiếc nón sắt loang lở vết sơn màu xanh, những cái vai áo kaki đẫm ướt mồ hôi, muối đọng thành những quầng trắng bạc, lưng người lính còng xuống vì sức nặng của những chiếc ba lô căng cứng, lẫn lộn xen kẻ với những tấm áo vải bạc màu và quang gánh tội nghiệp của đám dân chúng chạy loạn. Một hàng đoàn dài thườn thượt quân lẫn dân lặng im, kiệt lực đi về phía mặt trời mọc, mà bây giờ nó đang đứng ngay trên đỉnh đâu. Những tia nắng chói chang của một ngày đầu hè dội lên bãi cát những cơn nhiệt nóng tưởng chừng thể nung đỏ cả đá. Những con mắt mất thần dõi trông về phía trước, bên trái hay bên phải tìm kiếm dấu vết của nước. Những đôi môi thâm đen, khô nứt đang liếm chất mồ hôi mặn chát chảy từ chân tóc xuống, lạn sạn bụi cát. Chỉ toàn cát với cát. Lác đác nhũng bụi cỏ vàng úa, những thứ bụi cây gai cứng, nhọn thấp lè tè, hay một vài cây dương cằn cỗi oằn oại dưới cơn lửa nhiệt mùa hạ. Bọn trẻ con phá vỡ cái im ắng dị thường đó bằng những tiếng kêu khóc đòi sữa, đòi nước và đòi được cho ăn. Tiếng khóc nấc nghẹn của chúng dậy lên những âm thanh đau thương, thống thiết vang dội cả một khoảng trời trong xanh.
Những người lính đi lẫn lộn trong đám dân chúng, bị chìm ngập bởi những cánh tay đen, gầy như một rừng cành cây khô héo, một khi họ phân phát những giọt nước cuối cùng trong những cái bình tong nhựa, hay những gói gạo sấy, những hộp thức ăn ít ỏi còn sót lại dưới đáy ba lô. Chỉ mới một vài khoảnh khắc trước, một đại đội lính xông lên được an toàn trên cái đồi cát mênh mang này, sau khi đã chạy qua một cái vũng sình lầy, mà cứ mỗi thước vuông có không biết là bao nhiêu trái đạn pháo dội xuống. Bỗng nhiên từ mọi phía trên dãi cát, đám dân chúng ẩn nấp trong lùm cây bị cỏ từ trước ùa ra reo hò nắm lấy những người lính :”Lính mình, lính mình, lính cộng hòa...”. Đồng bào đông quá. Không biết họ đã lên đến cánh đồng cát này từ bao lâu, họ từ đâu tới và họ muốn đi về đâu. Đồng bào mừng quính, khi nhiều đại đội lính khác xông qua được cái trũng tử thần phía dưới. Họ ôm chầm lấy lính khóc òa :”Anh lính cộng hòa ơi...”. Lính cũng khóc. Đối với người dân hiền lành mộc mạc ở những nơi đồng khô cỏ cháy và trong nỗi chết chóc kinh hoàng đến tận cùng này, thì những chiếc áo kaki của lính đồng nghĩa với hy vọng và sự sống. Nhưng con đường vẫn còn dài thăm thẳm. Đi về hướng mặt trời mọc ra hướng biển rồi quặt xuống phía Nam, mức đến cuối cùng sẽ là một con sông được gọi tên là Mỹ Chánh, mà ở đó dân chúng nghe nói có “lính mình” nhiều lắm.
Đói, khát, kiệt sức, những người yếu đuối nhất, ông gia,ụ bà lão, đàn bà và trẻ con, lác đác dừng chân ngồi phệt xuống giữa con đường cát bỏng đưa những đôi mắt lờ đờ khô quánh nhìn theo đám dân chúng còn đứng vững trên hai chân lê lết bước qua . Những khuôn mặt hốc hác sạm đen ngước lên chăm chăm, đôi mắt mờ đục, tuyệt vọng ánh lên sự cầu xin cứu giúp. Một bà lão tóc bạc lơ thơ, bụi cát đã nhuộm thành màu xám xịt, chiềc áo vải cũ vá chằng vá đụp, mặt mũi bà nhăn nheo, sâu đậm như những vết nứt trên đồng khô đang ôm trong lòng một ông già ốm yếu nằm hấp hối bên đường. Cái miệng móm mém đã hết răng của bà phát ra những âm thanh áo não không thành tiếng. Bà lão đang khóc, nhưng itếng khóc của bà chỉ là một chuỗi tiếng kêu rên tắt nghẹn. Có lẽ rồi cũng đến lượt bà hấp hối như ông lão thôi. Chợt trông thấy hai người lính đi gần sát bên, bà lão đưa cánh tay gầy đen đủi chỉ còn xương bọc da níu lấy chân một người. Rồi bà nhoài người ra dùng cánh tay còn lại ôm luôn cái ống chân của anh lính khóc lóc :
- Cậu ơi cậu, tui lạy cậu, cậu cứu giùm ông già...
Anh lính sững người đứng chết lặng. Anh cúi đầu xuống nhìn bà lão, đôi mắt anh ánh lên vẻ xót thương :
- Ông ngoại làm sao vậy bà ngoại ?
Bà già ngước mặt lên, bà chấp tay trong tư thế sắp sửa cúi xuống lạy anh lính, lắp bắp những lời chắp nối đứt đoạn:
- Tui lạy...làm ơn cứu... ổng bịnh, ổng ...đói, khát... tui lạy mấy cậu...
Anh lính vội khuỵu chân xuống đỡ lấy tay bà lão :
- Bà ngoại ơi...
Anh xốn xang nhìn vào đôi mắt kèm nhèm mờ đục của bà lão, rồi anh nhìn xuống khuôn mặt hốc hác của ông lão. Ông lão vừa rên hừ hừ vừa đờ đẫn nhìn anh lính, đôi môi khô nứt của ông mấp máy không thành tiếng. Anh lính thở dài rút lấy cái bình đông nước, anh đưa cao lên lắc lác. Hình như chỉ còn một chút xíu ở tận đáy. Anh mở nắp trút những giọt nước quí giá cuối cùng ấy vào. Anh lính buồn rầu nhìn cái nắp chỉ lưng một nửa nước. Anh chậm rãi nâng đầu ông lão lên và nghiêng cái nắp rót nước vào miệng ông. Ông già nhắp nhắp nước, ông đưa mắt nhìn anh lính với vẻ biết ơn. Anh lính ngước lên kêu người bạn :
- Ê, Tư , mày còn nước rót cho bà ngoại một miếng.
Người lính được gọi là Tư lắc đầu nói trống không :
- Còn đâu mà còn !
Bà già đưa cái càm móm nhóp nhép đôi môi thâm đen :
- Tui không dám...
Tư ngồi xuống nắm lấy tay bà lão :
- Con cháu đâu hết rồi mà để cho ông ngoại bà ngoại lang thang như thế này ?
Bà già đưa đôi mắt u sầu nhìn người lính :
- Chết hết rồi, chỉ còn một đứa, nó đi đâu mất. Mấy cậu người ở đâu nói tiếng nghe lạ rứa?
-
- Tụi con ở miền Tây ra bà ngoại ơi !
-
Bà già nheo mắt nhìn anh lính lạ lùng :
- Miền Tây là ở mô, có phải trong nước Việt mình ?
-
Tư không khỏi không mĩm cưới trước câu hỏi ngộ nghĩnh của bà già :
- Miền Tây ở tận trong xa lắm bà ngoại ơi.
-
Hai người lính đứng lên muốn đuổi theo toán quân, bà già hoảng hốt ôm chặt lấy chân anh lính kêu khóc. Hai người bạn nhìn nhau. Mãi một lúc sau Tư buồn buồn nói với bạn :
- Thôi mình đi Hậu, biết làm sao...
-
Hậu bất nhẫn cúi xuống nhìn cái đầu tóc bám đầy bụi đất lơ thơ chỉ còn có mấy sợi của bà lão thở hắt ra :
- Tư, mày chịu khó vác thêm cái ba lô của tao !
-
Tư trố mắt nhìn bạn :
- Mày muốn cõng ông già hả ?
-
- Ừ, nhìn ông bà cụ này tao chợt nhớ ông ngoại bà ngoại tao...
-
- Nhưng mà ông bà ngoại mày đã lên bàn thờ từ lâu rồi mà !
-
- Mày có chịu hay là không ?
-
Tư dùng dằng :
- Cái thằng...thôi đưa đây, chặc, rồi mày định cõng ổng tới bao lâu ?
-
Hậu dùng hai tay kéo ông lão xốc lên lưng :
- Tới khi nào tao mỏi thì mày... thế !
-
Tư nghe lỗ tai lùng bùng :
- Hả, mày nói cái gì nói lại tao nghe thử ?
-
Bà lão đứng lên theo, bà ôm Hậu khóc ròng. Bà muốn nói lời cám ơn người lính, nhưng cổ họng bà khô rát và tắc nghẹn. Ông lão gục đầu lên cái vai áo loang lổ vết muối bạc của Hậu thở khò khè, nước dãi chảy thấm ướt đến trước ngực người lính. Tư còng lưng dưới sức nặng của hai chiếc ba lô đầy đạn, đã thế mà anh còn phải để cho bà già tựa vào vai . Tình cảnh của hai người bạn càng lúc càng khốn đốn và bi đát. Càng bi đát hơn khi hai người lính trông thấy ông đại đội trưởng đang ngồi trên chiếc nón sắt, dưới bóng râm của một cây dương ở đầu con đường chằm chằm nhìn họ. Người sĩ quan dường như đang nài xin với một người nào đó trên tiểu đoàn qua máy vô tuyến. Ông ta đang cầm cái ống nói áp vào miệng :
- Trình thẩm quyền ráng xin máy bay bốc thương binh và đồng bào ...
-
Người đại đội trưởng khoát tay ra dấu cho hai người lính dừng lại :
- Ê, mấy thằng, giao ông bà cụ cho quân y rồi lên trên đó đi.
-
Lên trên đó có nghĩa là mở đường, và có thể sẽ đánh lớn tới nơi. Hậu đỡ ông già nằm xuống bên gốc cây dương, anh nhỏ nhẹ nói với bà lão :
- Vậy là êm trời rồi bà ngoại, chắc ổng xin được trực thăng. Thôi bà ngoại ông ngoại đi mạnh giỏi nghe, tụi con còn phải đi...
-
Bà già nắm chặt bàn tay của Hậu. Đôi mắt của bà nhấp nháy nhưng không còn một chút nước mắt nào chảy ra từ cái hố khô kiệt ấy. Tư ân cần trao cho bà lão một gói cơm sấy và vài hộp thịt :
-Bà ngoại nhận đỡ mấy món này, tụi con chỉ còn có bấy nhiêu thôi.
Đây là những món cuối cùng trong ba lô của Tư, mà anh đã cho hết. Tư cũng không nhớ là rồi trên quãng đường khó khăn phía trước, anh sẽ sống sẽ ăn bằng cái gì nữa. Bà lão rưng rưng thều thào :
- Vợ chồng tui đội ơn mấy cậu. Tui cầu xin Phật Trời...
-
Bà già nghẹn ngào không nói được gì thêm nữa.
Khi đã đi một khoảng xa, Hậu quay lại nhìn. Anh thấy bà cụ đang đứng đưa tay lên che mắt nhìn theo. Tội nghiệp, cái lưng bà cụ cong xuống làm cái cổ của bà gần như rụt mất hút vào hai cái hốc vai gầy trơ xương. Một cô gái dáng người nhỏ thó hối hả chạy từ phía trước ngược về hướng hai người lính. Khi sắp vượt qua, bỗng cô dừng lại xoay người hỏi :
- Mấy anh ơi, mấy anh có thấy ở đàng sau có một ông già với một bà già không ?
-
Tư bật cười :
- Có, ông già bà già thì thiếu gì ở dưới đó...
-
Cô gái đứng ngẩn người ra bối rối. Chiếc quần vải thô màu đen bạc màu của cô gái đã co rút lên đến trên mắt cá, để lộ hai ống xương chân nhỏ, nước da xạm mốc. Hai bàn chân nứt nẻ của nàng mang đôi dép cao su đã mòn, mấy cái quay đứt được cột lại bằng những sợi dây bố. Rất khó ước định cô gái được bao nhiêu tuổi, vì thân thể cô nhỏ nhắn như một em gái mười lăm, mười sáu, nhưng khuôn mặt thì khắc khổ rám đen như một thiếu nữ đã ngoài hai mươi. Mái tóc cháy vàng của nàng dài quá khỏi đôi vai gầy được kẹp bằng một cái trâm bằng đồi mồi cũ. Hậu có một cái cảm giác, hay nói đúng hơn, một linh tính. Anh tiến lên dịu dàng nói với nàng :
- Có phải cô hỏi ông cụ nằm hấp hối bên đường ?
-
Cô gái nhỏ sáng mắt mừng rỡ :
- Dạ, phải. Em đi tìm nước cho ông bà ngoại em, đây nè... ơ...
-
Nàng đưa cao cho hai người lính thấy một cái chai đựng một thứ nước, nếu có thể gọi được như vậy, đen đục ngầu lợn cợn bùn đất. Rồi nàng hạ cái chai xuống cúi đầu lúng túng. Hậu hỏi :
- Cô tìm nước ở chỗ nào vậy ?
-
Cô gái chỉ tay xuống một chỗ trũng nước mà Hậu và Tư có thể trông thấy một đám đông người đang xúm xít quì nằm chen chúc nhau chung quanh, vẻ ngượng nghịu :
- Em lấy nước ở cái hố đó, không tìm được nước chỗ nào hết mấy anh ơi.
-
Hậu móc trong ba lô một cái chai nhỏ trao cho cô gái :
- Cô lấy chai thuốc lọc nước và sát trùng này. Cứ một viên thì lọc được một chai như thế này. Ngâm chừng nửa giờ thì uống được. Cô có thấy cái cây dương đàng kia không, ông bà ngoại cô đang nằm ở đó chờ trực thăng. Thôi chúc cô và ông bà cụ được bình yên.
-
Cô gái rưng rưng nước mắt, nàng nhìn sững vào nắp túi vải chỗ thêu cái tên Hậu của anh và Tư. Rồi nàng nhìn vai áo bọn anh, chỗ gắn cái phù hiệu đơn vị. Như để ghi nhận xuất xứ của những người lính. Khi hai người bạn đã xông lên tuyến đầu và đang nằm sau mấy cái mô đất chỉa súng về phía trước, họ trông thấy mấy chiếc trực thăng loại lớn phành phạch hạ cánh xuống phía đồi cát.
Một buổi chiều mùa h è năm sau. Bà cụ đang ngồi lom khom vo gạo phía sau cái chái bếp thì Tươi từ ngoài chạy vào ôm lấy bà, suýt nữa bà lão trật tay hất cái nồi xuống sàn nước. Bà cụ dùng dằng gỡ tay cô cháu:
- Cái con nhỏ này, mày không muốn ăn cơm chắc ?
-
Tươi miết cái gò má màu nâu sậm của ànng vào cái cằm móm mém của bà cụ kêu lên :
- Ngoại ơi, con mới thấy mấy ảnh nè ngoại !
-
Bà cũ quay lại dưa đôi mắt kèm nhèm nhìn cô gái :
- Mấy ảnh nào, ở mô ?
-
Tươi vẫn ôm bà ngoại trong lòng hớn hở nói :
- Trời ơi mấy ảnh về đông lắm. Bà ngoại có nhớ hai cái anh lính hồi năm ngoái hôn ?
-
Bà già nhíu mày :
- Lính tráng nhiều quá biết nhớ ai với ai...
-
Tươi trề môi :
- Có vậy mà cũng không nhớ. Hai anh lính cõng ông ngoại hồi mình ở trên cái đồi cát đó ngoại !
-
Bà cụ giật mình muốn đứng dậy :
- Vậy hả, con dắt ngoại tới đó đi.
-
Tươi vân vê tà áo :
- Hỏng lẽ mình tới không coi kỳ lắm ngoại ơi.
-
- Con vô bắt con gà mái cho ngoại...
-
Hai người bạn đang hì hục đào đất củng cố vị trí thì có lệnh của ông đại đội trưởng kêu lên trình diện. Người sĩ quan ngồi sau cái bàn gỗ cũ sờ càm nhìn hai người lính đứng nghiêm trong tư thế chào. Ông nhìn chằm chằm làm Hậu và Tư đâm hoảng, trong lòng, đoán già đoán non không rõ đã làm chuyện gì không phải. Hậu liếc mắt nhìn xuống bộ quân phục. Vẫn tươm tất. Nhìn xuống đôi giày. có bị dơ chút xíu, vì đang đào giao thông hào mà. Nhưng nụ cười bao dung của người sĩ quan đã nở trên môi :
Bài Viết Ngẫu Nhiên:
Battle Fantasia PAL XBOX360
Red alert 1(Game chiến tranh thế giới)
“Café, đắng”
111 Font Families
80 VCD học tiếng Anh cực hay
E-Mail Creations v1.5
[Thơ ] Chúc Xuân
[MediaFire/Adrive] Tổng hợp 18 DVD của PhotoshopCafe
16 mét vuông
Những ngẫu hứng sáng tạo từ dây thép
Dưới những chiếc nón sắt loang lở vết sơn màu xanh, những cái vai áo kaki đẫm ướt mồ hôi, muối đọng thành những quầng trắng bạc, lưng người lính còng xuống vì sức nặng của những chiếc ba lô căng cứng, lẫn lộn xen kẻ với những tấm áo vải bạc màu và quang gánh tội nghiệp của đám dân chúng chạy loạn. Một hàng đoàn dài thườn thượt quân lẫn dân lặng im, kiệt lực đi về phía mặt trời mọc, mà bây giờ nó đang đứng ngay trên đỉnh đâu. Những tia nắng chói chang của một ngày đầu hè dội lên bãi cát những cơn nhiệt nóng tưởng chừng thể nung đỏ cả đá. Những con mắt mất thần dõi trông về phía trước, bên trái hay bên phải tìm kiếm dấu vết của nước. Những đôi môi thâm đen, khô nứt đang liếm chất mồ hôi mặn chát chảy từ chân tóc xuống, lạn sạn bụi cát. Chỉ toàn cát với cát. Lác đác nhũng bụi cỏ vàng úa, những thứ bụi cây gai cứng, nhọn thấp lè tè, hay một vài cây dương cằn cỗi oằn oại dưới cơn lửa nhiệt mùa hạ. Bọn trẻ con phá vỡ cái im ắng dị thường đó bằng những tiếng kêu khóc đòi sữa, đòi nước và đòi được cho ăn. Tiếng khóc nấc nghẹn của chúng dậy lên những âm thanh đau thương, thống thiết vang dội cả một khoảng trời trong xanh.
Những người lính đi lẫn lộn trong đám dân chúng, bị chìm ngập bởi những cánh tay đen, gầy như một rừng cành cây khô héo, một khi họ phân phát những giọt nước cuối cùng trong những cái bình tong nhựa, hay những gói gạo sấy, những hộp thức ăn ít ỏi còn sót lại dưới đáy ba lô. Chỉ mới một vài khoảnh khắc trước, một đại đội lính xông lên được an toàn trên cái đồi cát mênh mang này, sau khi đã chạy qua một cái vũng sình lầy, mà cứ mỗi thước vuông có không biết là bao nhiêu trái đạn pháo dội xuống. Bỗng nhiên từ mọi phía trên dãi cát, đám dân chúng ẩn nấp trong lùm cây bị cỏ từ trước ùa ra reo hò nắm lấy những người lính :”Lính mình, lính mình, lính cộng hòa...”. Đồng bào đông quá. Không biết họ đã lên đến cánh đồng cát này từ bao lâu, họ từ đâu tới và họ muốn đi về đâu. Đồng bào mừng quính, khi nhiều đại đội lính khác xông qua được cái trũng tử thần phía dưới. Họ ôm chầm lấy lính khóc òa :”Anh lính cộng hòa ơi...”. Lính cũng khóc. Đối với người dân hiền lành mộc mạc ở những nơi đồng khô cỏ cháy và trong nỗi chết chóc kinh hoàng đến tận cùng này, thì những chiếc áo kaki của lính đồng nghĩa với hy vọng và sự sống. Nhưng con đường vẫn còn dài thăm thẳm. Đi về hướng mặt trời mọc ra hướng biển rồi quặt xuống phía Nam, mức đến cuối cùng sẽ là một con sông được gọi tên là Mỹ Chánh, mà ở đó dân chúng nghe nói có “lính mình” nhiều lắm.
Đói, khát, kiệt sức, những người yếu đuối nhất, ông gia,ụ bà lão, đàn bà và trẻ con, lác đác dừng chân ngồi phệt xuống giữa con đường cát bỏng đưa những đôi mắt lờ đờ khô quánh nhìn theo đám dân chúng còn đứng vững trên hai chân lê lết bước qua . Những khuôn mặt hốc hác sạm đen ngước lên chăm chăm, đôi mắt mờ đục, tuyệt vọng ánh lên sự cầu xin cứu giúp. Một bà lão tóc bạc lơ thơ, bụi cát đã nhuộm thành màu xám xịt, chiềc áo vải cũ vá chằng vá đụp, mặt mũi bà nhăn nheo, sâu đậm như những vết nứt trên đồng khô đang ôm trong lòng một ông già ốm yếu nằm hấp hối bên đường. Cái miệng móm mém đã hết răng của bà phát ra những âm thanh áo não không thành tiếng. Bà lão đang khóc, nhưng itếng khóc của bà chỉ là một chuỗi tiếng kêu rên tắt nghẹn. Có lẽ rồi cũng đến lượt bà hấp hối như ông lão thôi. Chợt trông thấy hai người lính đi gần sát bên, bà lão đưa cánh tay gầy đen đủi chỉ còn xương bọc da níu lấy chân một người. Rồi bà nhoài người ra dùng cánh tay còn lại ôm luôn cái ống chân của anh lính khóc lóc :
- Cậu ơi cậu, tui lạy cậu, cậu cứu giùm ông già...
Anh lính sững người đứng chết lặng. Anh cúi đầu xuống nhìn bà lão, đôi mắt anh ánh lên vẻ xót thương :
- Ông ngoại làm sao vậy bà ngoại ?
Bà già ngước mặt lên, bà chấp tay trong tư thế sắp sửa cúi xuống lạy anh lính, lắp bắp những lời chắp nối đứt đoạn:
- Tui lạy...làm ơn cứu... ổng bịnh, ổng ...đói, khát... tui lạy mấy cậu...
Anh lính vội khuỵu chân xuống đỡ lấy tay bà lão :
- Bà ngoại ơi...
Anh xốn xang nhìn vào đôi mắt kèm nhèm mờ đục của bà lão, rồi anh nhìn xuống khuôn mặt hốc hác của ông lão. Ông lão vừa rên hừ hừ vừa đờ đẫn nhìn anh lính, đôi môi khô nứt của ông mấp máy không thành tiếng. Anh lính thở dài rút lấy cái bình đông nước, anh đưa cao lên lắc lác. Hình như chỉ còn một chút xíu ở tận đáy. Anh mở nắp trút những giọt nước quí giá cuối cùng ấy vào. Anh lính buồn rầu nhìn cái nắp chỉ lưng một nửa nước. Anh chậm rãi nâng đầu ông lão lên và nghiêng cái nắp rót nước vào miệng ông. Ông già nhắp nhắp nước, ông đưa mắt nhìn anh lính với vẻ biết ơn. Anh lính ngước lên kêu người bạn :
- Ê, Tư , mày còn nước rót cho bà ngoại một miếng.
Người lính được gọi là Tư lắc đầu nói trống không :
- Còn đâu mà còn !
Bà già đưa cái càm móm nhóp nhép đôi môi thâm đen :
- Tui không dám...
Tư ngồi xuống nắm lấy tay bà lão :
- Con cháu đâu hết rồi mà để cho ông ngoại bà ngoại lang thang như thế này ?
Bà già đưa đôi mắt u sầu nhìn người lính :
- Chết hết rồi, chỉ còn một đứa, nó đi đâu mất. Mấy cậu người ở đâu nói tiếng nghe lạ rứa?
-
- Tụi con ở miền Tây ra bà ngoại ơi !
-
Bà già nheo mắt nhìn anh lính lạ lùng :
- Miền Tây là ở mô, có phải trong nước Việt mình ?
-
Tư không khỏi không mĩm cưới trước câu hỏi ngộ nghĩnh của bà già :
- Miền Tây ở tận trong xa lắm bà ngoại ơi.
-
Hai người lính đứng lên muốn đuổi theo toán quân, bà già hoảng hốt ôm chặt lấy chân anh lính kêu khóc. Hai người bạn nhìn nhau. Mãi một lúc sau Tư buồn buồn nói với bạn :
- Thôi mình đi Hậu, biết làm sao...
-
Hậu bất nhẫn cúi xuống nhìn cái đầu tóc bám đầy bụi đất lơ thơ chỉ còn có mấy sợi của bà lão thở hắt ra :
- Tư, mày chịu khó vác thêm cái ba lô của tao !
-
Tư trố mắt nhìn bạn :
- Mày muốn cõng ông già hả ?
-
- Ừ, nhìn ông bà cụ này tao chợt nhớ ông ngoại bà ngoại tao...
-
- Nhưng mà ông bà ngoại mày đã lên bàn thờ từ lâu rồi mà !
-
- Mày có chịu hay là không ?
-
Tư dùng dằng :
- Cái thằng...thôi đưa đây, chặc, rồi mày định cõng ổng tới bao lâu ?
-
Hậu dùng hai tay kéo ông lão xốc lên lưng :
- Tới khi nào tao mỏi thì mày... thế !
-
Tư nghe lỗ tai lùng bùng :
- Hả, mày nói cái gì nói lại tao nghe thử ?
-
Bà lão đứng lên theo, bà ôm Hậu khóc ròng. Bà muốn nói lời cám ơn người lính, nhưng cổ họng bà khô rát và tắc nghẹn. Ông lão gục đầu lên cái vai áo loang lổ vết muối bạc của Hậu thở khò khè, nước dãi chảy thấm ướt đến trước ngực người lính. Tư còng lưng dưới sức nặng của hai chiếc ba lô đầy đạn, đã thế mà anh còn phải để cho bà già tựa vào vai . Tình cảnh của hai người bạn càng lúc càng khốn đốn và bi đát. Càng bi đát hơn khi hai người lính trông thấy ông đại đội trưởng đang ngồi trên chiếc nón sắt, dưới bóng râm của một cây dương ở đầu con đường chằm chằm nhìn họ. Người sĩ quan dường như đang nài xin với một người nào đó trên tiểu đoàn qua máy vô tuyến. Ông ta đang cầm cái ống nói áp vào miệng :
- Trình thẩm quyền ráng xin máy bay bốc thương binh và đồng bào ...
-
Người đại đội trưởng khoát tay ra dấu cho hai người lính dừng lại :
- Ê, mấy thằng, giao ông bà cụ cho quân y rồi lên trên đó đi.
-
Lên trên đó có nghĩa là mở đường, và có thể sẽ đánh lớn tới nơi. Hậu đỡ ông già nằm xuống bên gốc cây dương, anh nhỏ nhẹ nói với bà lão :
- Vậy là êm trời rồi bà ngoại, chắc ổng xin được trực thăng. Thôi bà ngoại ông ngoại đi mạnh giỏi nghe, tụi con còn phải đi...
-
Bà già nắm chặt bàn tay của Hậu. Đôi mắt của bà nhấp nháy nhưng không còn một chút nước mắt nào chảy ra từ cái hố khô kiệt ấy. Tư ân cần trao cho bà lão một gói cơm sấy và vài hộp thịt :
-Bà ngoại nhận đỡ mấy món này, tụi con chỉ còn có bấy nhiêu thôi.
Đây là những món cuối cùng trong ba lô của Tư, mà anh đã cho hết. Tư cũng không nhớ là rồi trên quãng đường khó khăn phía trước, anh sẽ sống sẽ ăn bằng cái gì nữa. Bà lão rưng rưng thều thào :
- Vợ chồng tui đội ơn mấy cậu. Tui cầu xin Phật Trời...
-
Bà già nghẹn ngào không nói được gì thêm nữa.
Khi đã đi một khoảng xa, Hậu quay lại nhìn. Anh thấy bà cụ đang đứng đưa tay lên che mắt nhìn theo. Tội nghiệp, cái lưng bà cụ cong xuống làm cái cổ của bà gần như rụt mất hút vào hai cái hốc vai gầy trơ xương. Một cô gái dáng người nhỏ thó hối hả chạy từ phía trước ngược về hướng hai người lính. Khi sắp vượt qua, bỗng cô dừng lại xoay người hỏi :
- Mấy anh ơi, mấy anh có thấy ở đàng sau có một ông già với một bà già không ?
-
Tư bật cười :
- Có, ông già bà già thì thiếu gì ở dưới đó...
-
Cô gái đứng ngẩn người ra bối rối. Chiếc quần vải thô màu đen bạc màu của cô gái đã co rút lên đến trên mắt cá, để lộ hai ống xương chân nhỏ, nước da xạm mốc. Hai bàn chân nứt nẻ của nàng mang đôi dép cao su đã mòn, mấy cái quay đứt được cột lại bằng những sợi dây bố. Rất khó ước định cô gái được bao nhiêu tuổi, vì thân thể cô nhỏ nhắn như một em gái mười lăm, mười sáu, nhưng khuôn mặt thì khắc khổ rám đen như một thiếu nữ đã ngoài hai mươi. Mái tóc cháy vàng của nàng dài quá khỏi đôi vai gầy được kẹp bằng một cái trâm bằng đồi mồi cũ. Hậu có một cái cảm giác, hay nói đúng hơn, một linh tính. Anh tiến lên dịu dàng nói với nàng :
- Có phải cô hỏi ông cụ nằm hấp hối bên đường ?
-
Cô gái nhỏ sáng mắt mừng rỡ :
- Dạ, phải. Em đi tìm nước cho ông bà ngoại em, đây nè... ơ...
-
Nàng đưa cao cho hai người lính thấy một cái chai đựng một thứ nước, nếu có thể gọi được như vậy, đen đục ngầu lợn cợn bùn đất. Rồi nàng hạ cái chai xuống cúi đầu lúng túng. Hậu hỏi :
- Cô tìm nước ở chỗ nào vậy ?
-
Cô gái chỉ tay xuống một chỗ trũng nước mà Hậu và Tư có thể trông thấy một đám đông người đang xúm xít quì nằm chen chúc nhau chung quanh, vẻ ngượng nghịu :
- Em lấy nước ở cái hố đó, không tìm được nước chỗ nào hết mấy anh ơi.
-
Hậu móc trong ba lô một cái chai nhỏ trao cho cô gái :
- Cô lấy chai thuốc lọc nước và sát trùng này. Cứ một viên thì lọc được một chai như thế này. Ngâm chừng nửa giờ thì uống được. Cô có thấy cái cây dương đàng kia không, ông bà ngoại cô đang nằm ở đó chờ trực thăng. Thôi chúc cô và ông bà cụ được bình yên.
-
Cô gái rưng rưng nước mắt, nàng nhìn sững vào nắp túi vải chỗ thêu cái tên Hậu của anh và Tư. Rồi nàng nhìn vai áo bọn anh, chỗ gắn cái phù hiệu đơn vị. Như để ghi nhận xuất xứ của những người lính. Khi hai người bạn đã xông lên tuyến đầu và đang nằm sau mấy cái mô đất chỉa súng về phía trước, họ trông thấy mấy chiếc trực thăng loại lớn phành phạch hạ cánh xuống phía đồi cát.
Một buổi chiều mùa h è năm sau. Bà cụ đang ngồi lom khom vo gạo phía sau cái chái bếp thì Tươi từ ngoài chạy vào ôm lấy bà, suýt nữa bà lão trật tay hất cái nồi xuống sàn nước. Bà cụ dùng dằng gỡ tay cô cháu:
- Cái con nhỏ này, mày không muốn ăn cơm chắc ?
-
Tươi miết cái gò má màu nâu sậm của ànng vào cái cằm móm mém của bà cụ kêu lên :
- Ngoại ơi, con mới thấy mấy ảnh nè ngoại !
-
Bà cũ quay lại dưa đôi mắt kèm nhèm nhìn cô gái :
- Mấy ảnh nào, ở mô ?
-
Tươi vẫn ôm bà ngoại trong lòng hớn hở nói :
- Trời ơi mấy ảnh về đông lắm. Bà ngoại có nhớ hai cái anh lính hồi năm ngoái hôn ?
-
Bà già nhíu mày :
- Lính tráng nhiều quá biết nhớ ai với ai...
-
Tươi trề môi :
- Có vậy mà cũng không nhớ. Hai anh lính cõng ông ngoại hồi mình ở trên cái đồi cát đó ngoại !
-
Bà cụ giật mình muốn đứng dậy :
- Vậy hả, con dắt ngoại tới đó đi.
-
Tươi vân vê tà áo :
- Hỏng lẽ mình tới không coi kỳ lắm ngoại ơi.
-
- Con vô bắt con gà mái cho ngoại...
-
Hai người bạn đang hì hục đào đất củng cố vị trí thì có lệnh của ông đại đội trưởng kêu lên trình diện. Người sĩ quan ngồi sau cái bàn gỗ cũ sờ càm nhìn hai người lính đứng nghiêm trong tư thế chào. Ông nhìn chằm chằm làm Hậu và Tư đâm hoảng, trong lòng, đoán già đoán non không rõ đã làm chuyện gì không phải. Hậu liếc mắt nhìn xuống bộ quân phục. Vẫn tươm tất. Nhìn xuống đôi giày. có bị dơ chút xíu, vì đang đào giao thông hào mà. Nhưng nụ cười bao dung của người sĩ quan đã nở trên môi :
**************** Hãy cùng chia sẻ với bạn bè bằng cách ****************
Copy đường link dưới đây gửi đến nick yahoo bạn bè! |
Hiện chưa có lời bình nào cho bài viết này.