Đóng lại!  Bạn chưa là thành viên của Blog 12B TVT. Hãy click vào đây để đăng ký làm thành viên và tham gia viết bài nhé!

Bông hồng vàng - Pauxtôpxki

[ 2009-05-03 19:21:33 | Tác giả: bvl91 ]
Cỡ chữ: Lớn | Bình thường | Nhỏ

Tôi không sao nhớ ra được là mình đã biết câu chuyện anh thợ quét rác thành Paris tên là Giăng Samet như thế nào. Samet kiếm sống bằng nghề quét dọn những xưởng thủ công trong khu phố anh ở.
Samet sống trong một túp lều ở ngoại thành. Tất nhiên, có thể tả tỉ mỉ khu ngoại ô và như vậy sẽ đưa độc giả ra ngoài lề câu chuyện. Nhưng thiết tưởng chỉ cần nhắc lại rằng đến nay ở những khu ngoại thành Paris vẫn còn lại những tường thành cổ bằng đất cũng đủ. Vào khoảng thời gian xảy ra câu chuyện, những bụi hoa kim ngân và sơn trà vẫn mọc um tùm trên tường thành và chim choc làm tổ trong những bụi đó.
Túp lều của anh thợ quét rác nằm ép sát vào chân tường thành phía bắc, kề bên những ngôi nhà nhỏ bé của các bác hàng thiết, các bác thợ giày, những người đi nhặt đầu mẫu thuốc lá và những người ăn mày.
Nếu như Môpatxăng để ý đến cuộc sống của những người cư trú trong những túp lều nọ, hẳn ông đã viết thêm được một số truyện ngắn tuyệt hay. Có khi chúng sẽ làm cho vinh quang vốn đã vững chắc của ông thêm nhiếu vòng hoa chiến thắng mới.
Đáng tiếc là không một người ngoài cuộc nào để mắt đến những nơi ấy, trừ lũ mật thám. Mà bọn này cũng chỉ ló mặt đến đây trong trường hợp phải đi lùng kiếm đồ vật mất trộm.
Bằng vào biệt hiệu “Gõ kiến” mà hàng xóm láng giềng đặt cho Samet, ta phải hình dung anh là một người gầy gò, mũi nhọn và dưới vành mũ bao giờ cũng lủng lẳng một mớ tóc giống như mào chim.
Trước kia, Samet đã từng được sống những ngày sung sướng. Anh đăng lính trong quân đội của “Tiểu Napoleon” trong thời gian chiến tranh ở Mehico.
Samet gặp may. Anh bị sốt rét nặng ở Vera-Krux. Anh lính ốm yếu chưa từng qua một trận đọ súng thực sự nào liền được gửi về nước. Viên chỉ huy trung đoàn nhân dịp bèn nhờ Samet đưa đứa con gái lên tám của ông tên là Xuyzan về Pháp.
Viên chỉ huy góa vợ, vì thế đi đâu ông cũng phải lão đão mang con gái theo. Nhưng lần này ông quyết định chia tay với con và gửi nó về cho người chị ở Ruăng. Khí hậu Mehico rất độc đối với trẻ con Âu. Thêm vào đó cuộc chiến tranh du kích hỗn độn ở đây chẳng thiếu gì những nguy hiểm bất ngờ.
Trên đường Samet về Pháp khí nóng bốc ngùn ngụt trên Đại Tây Dương. Con bé suốt ngày im lặng. Thậm chí nhìn những con cá bay vọt lên khỏi mặtnước bóng nhẫy nó cũng chẳng mỉm cười.
Samet hết sức chăm sóc Xuzan. Tất nhiên, anh cũng hiểu rằng con bé không chỉ mong được anh chăm sóc, mà còn muốn được âu yếm vuốt ve. Mà anh, tên lính của một trung đoàn thuộc địa, anh có thể nghĩ ra được cái gì trìu mến kia chứ? Anh có thể mua vui cho nó bằng cách gì đây? Đánh mạt chượt với nó chăng? Hay hát cho nó nghe những bài hát thô tục của lính tráng?
Nhưng dù sao thì cũng không thể cứ nín lặng mãi. Càng ngày anh càng hay bắt gặp cái nhìn băn khoăn của con bé. Cuối cùng anh đánh liều bắt đầu kể cho nó nghe một cách không có mạch lạc cuộc đời mình, nhớ lại những tình tiếtnhỏ nhặt nhất về một vạn chài trên bờ biển Măngsơ, những bãi cát tơi, những vũng nước khi triều xuống, ngôi nhà thờ nhỏ trong thôn với quả chuông ran, chuyện bà mẹ anh chữa cho hàng xóm láng giềng khỏi chứng đau rát thực quản.
Samet không tìm được chuyện gì buồn cười trong những mẫu ký ức đó để làm vui cho Xuyzan. Nhưng anh ngạc nhiên thấy con bé háo hức nghe những chuyện ấy và thậm chí còn bắt anh kể đi kể lại, đòi biết thêm những tình tiết mới.
Samet nặn óc tìm cho ra những tình tiết ấy mãi cho đến khi anh không còn tin được là chúng có thật. Đó không còn là những ký ức, mà chỉ là những bong dáng mờ nhạt của chúng. Chúng tan ra như những mảnh sương mù. thực vậy, Samet không hề ngờ rằng sẽ có lúc anh phải khôi phục lại trong trí nhớ quãng thời gian vô ích ấy của đời mình.
Có lần anh mang máng nhớ tới một bong hồng bằng vàng. Cũng chẳng ra là Samet đã trông thấy bông hồng thô kệch đánh bằng vàng đã xuống nước móc vào cây thánh giá Chúa trong nhà một bà lão dân chài, mà cũng chẳng ra anh đã nghe những câu chuyện về bông hồng đó do những người láng giềng kể lại.
Không, đúng là anh thậm chí đã thấy bông hồng đó và còn nhớ nó sáng lấp lánh như thế nào, mặc dù bên ngoài cửa sổ không có nắng và cơn bão buồn thảm đang sôi sục ngoài eo biển. Càng về sau Samet càng nhớ rõ thêm cái ánh lấp lánh ấy: nó giống như mấy ngọn lửa nhỏ cháy sáng dưới một trần nhà thấp.
Mọi người trong thôn đều ngạc nhiên thấy bà lão dân chài không chịu bán vật quý của mình. Bán nó đi bà có thể thu được món tiền lớn. Chỉ một mình mẹ Samet cả quyết rằng bán bông hồng vàng ấy đi là có tội bởi vì đó là quà chúc phúc của người tình bà lão tặng bà, khi bà còn là một cô gái tươi hơn hớn làm ở nhà máy đóng hộp cá xác-đin ở tỉnh Ôđécnơ.
- Trên thế gian này hiếm ai có được những bông hồng vàng, - mẹ Samet nói – nhà nào có nó, nhà ấy sẽ được hạnh phúc. Mà không riêng gì họ, ai đụng tới bông hồng đó, người đó cũng sẽ được như vậy.

Thằng bé Samet sốt ruột đợi mãi ngày bà lão dân chài sẽ được hưởng hạnh phúc. Nhưng cả đến bóng dáng của hạnh phúc cũng chẳng thấy đâu. Ngôi nhà của bà lão run rẩy trước gió và tối tối trong nhà cũng chẳng có ánh lửa.
Thế rồi Samet bỏ làng ra đi, không đợi được đến ngày cuộc đời bà lão đổi thay. Mãi một năm sau, một người quen làm thợ đốt lò trên con tàu chở thư ở Lơ Havrơ mới kể cho anh nghe rằng con trai bà lão bất thình lình từ Pari trở về, anh chàng học sĩ đó râu xồm, vui nhộn và có tính khí kỳ quặc. Từ ngày ấy người ta không còn có thể nhận ra túp lều kia nữa. nó trở nên ồn ào và dư dật. Người ta kháo nhau rằng bọn họa sĩ vẽ lăng nhăng cũng kiếm được ối tiền.
Một hôm, ngồi trên boong tàu, Samet đang dùng chiếc lược sắt của mình chải mớ tóc rối tung trước gió của Xuyzan thì con bé hỏi anh:
- Anh Giăng ơi, rồi cũng có người cho em một bông hồng vàng chứ?
- Rất có thể - Samet trả lời. - Rồi cũng sẽ có một thằng dỡ hơi nào đó cho em, Xuyzan ạ! Trong đại đội anh có một chú lính gầy nhom. Thằng cha thật tốt số lạ lùng. Hắn nhặt được trên chiến trường một chiếc hàm giả gẫy, bằng vàng. Cả đại đội bèn bán đi lấy tiền nhậu. Chuyện đó xảy ra hồi chiến tranh Annam. Các chàng pháo thủ say ruợu mới lấy súng cối bắn chơi cho vui, đạn rơi vào miệng ngọn núi lửa đã tắt, nổ tung trong đó, và bị cú bất ngờ này núi lửa thường thở phì phì và phun lửa. Có trời biết tên ngọn núi lửa ấy là gì? Hình như là Krata-Taka thì phải. Nó phun mới dữ làm sao! Bốn chục người dân bản xứ đang yên lành lăn cổ ra chết. Chỉ vì một cái hàm giả hỏng mà ngần ấy người toi mạng, thật quá quẩn! Về sau mới biết ra là hàm răng ấy của chính ông đại tá đơn vị anh đánh rơi. Vụ này rồi sau cũng được dẹp đi – uy tín qân đội trên hết mà. Nhưng bọn anh thì chuyến ấy say bí tỉ.
- Chuyện ấy xảy ra ở đâu hả anh? – Xuyzab nghi ngờ hỏi.
- Anh đã nói rồi mà, ở nước Annam, ở Đông Dương. Ở đấy đại dương bùng bùng lửa cháy, chẳng khác gì dưới địa ngục, còn những con sứa thì giống như những cái váy viền đăng ten của vũ nữ. Ở đấy lại còn ẩm ướt nữa chứ, đến nỗi chỉ một đêm thôi, nấm đã mọc lên trong ủng của bọn anh. Anh mà nói dối thì xin cứ treo cổ anh lên.
Trước đó Samet đã nghe nhiều chuyện bịc đặt của lính tráng, nhưng riêng anh, anh chưa từng bịa chuyện bao giờ thấy cần phải làm như vậy. còn giờ đây anh coi việc làm vui cho Xuyzan là một bổn phận thiêng liêng.
Samet đưa con bé đến Ruăng và trao tận tay cho bác gái của Xuyzan - một người đàn bà cao lớn, có đôi môi tái nhợt và mím chặt. Bà lão đeo hạt cườm đen khắp mình trông như một con rắn ở rạp xiếc.
Con bé vừa nhìn thấy bà ta đã vội bám chặt lấy Samet và nép vào cái áo ca pốt bạc phếch của anh.
- Không sao! – Samet thì thầm và khẽ đẩy vào vai Xuyzan. - Bọn lính trơn các anh cũng chẳng được lựa chọn cho mình các ông đại đội trưởng đâu. chịu khó vậy, Xuzi, cô lính ạ!
Samet bỏ đi. Anh ngoảnh lại mấy lần nhìn lên những khung cửa sổ của ngôi nhà buồn tẻ, ở đó đến gió cũng chẳng buồn lay động những bức rèm. Nghe rõ tiếng đồng hồ hối hả trong những quán nhỏ nằm trong các phố hẹp. Trong túi dết Samet còn giữ lại một kỷ niệm của Xuyzan, một cái nơ buộc tóc đã nhàu nát màu xanh. Có trời biết vì sao cái băng đó lại thơm dịu đến thế, như thể nó được để lâu trong một giành hoa tím.
Bệnh sốt rét Mehico đã hủy hoại sức khỏe Samet. Anh chưa được thăng chức đội thì đã bị thải rồi. Samet trở về cuộc sống dân thường với hàm binh nhì.
Năm tháng qua đi trong cảnh thiếu thốn đơn điệu. Samet nếm hết nghề khốn khổ này đến nghề khốn khổ khác và cuối cùng anh trở thành người hốt rác thành Pari. Từ đó mùi bụi bặm và rác rưởi lúc nào cũng ám vào anh. Anh cảm thấy nó cả trong cơn gió thoảng từ phía sông Xen luồn vào trong phố, cả trong những bó hoa ướt át mà các bà lão ăn vận sạch sẽ đứng bán trên các đại lộ.
Ngày lại ngày quyện lấy nhau trong một màu vàng đục. Nhưng đôi khi trong cái màu vàng đục ấy, Samet lại thấy hiện lên trong lòng mình một áng mây hồng: đó là bộ áo dài củ của Xuyzan. Từ tấm áo ấy phảng phất hương xuân tươi mát như thể người ta cũng để nó lâu trong một giành hoa tím.
Xuyzan giờ ở đâu? Em sống ra sao? Samet biết ngày nay Xuyzan đã là một cô gái trưởng thành, còn cha nàng thì đã bị tử thương.
Đã nhiều lần Samet định đi Ruăng thăm Xuyzan. Nhưng anh cứ lần lữa mãi cho đến lúc chợt hiểu rằng mình đã bỏ lỡ thời gian và chắc chắn Xuyzan đã quên hẳn anh rồi.
Anh tự mắng mình là đồ bị thịt, khi nhớ đến cuộc chia tay với Xuyzan. Đáng lẽ phải hôn con bé thì anh lại ấn vào lưng nó, đẩy nó tới chỗ con quạ già nọ và bảo: “Chịu khó vậy, Xuzi, cô lính ạ!”
i cũng biết những người thợ hốt rác chỉ làm việc ban đêm. Có hai nguyên nhân buộc họ phải làm đêm như vậy: đó là vì rác rưởi do hoạt động náo nhiệt và không phải lúc nào cũng có ích của con người thải ra tích tụ nhiều nhất vào cuối ngày và ngoài ra, những người thợ hốt rác không được phép xúc phạm thị giác và khứu giác của người đất kinh kỳ. Ban đêm hầu như chẳng có ai trông thấy việc làm của những người hốt rác, trừ lũ chuột cống.
Samet đã quen với công việc về đêm và còn thích thú cái khoảng thời gian ấy là đằng khác. nhất là vào lúc ánh bình minh uể oải bắt đầu chọc thủng màn đêm trên thành phố. Sương mù vương vất trên sông Xen, nhưng sương không bao giờ bay lên quá thành cầu.
Một hôm, cũng vào một buổi bình minh mờ mịt hơi sương như thế, Samet đi trên cầu Phế binh và gặp một thiếu phụ mặc áo dài màu tím nhạt, đính đăng ten đen. thiếu phụ đứng trên thành cầu và nhìn xuống sông Xen.
Samet dừng lại, cất bỏ chiếc mũ bụi bặm và nói:
- Thưa tiểu thư, nước sông Xen lúc này lạnh lắm. Tiểu thư nên để tôi đưa về nhà thì hơn.
- Giờ đây tôi cũng chẳng có nhà.
Thiếu phụ trả lời rất nhanh và quay về phía Samet.
Samet để rơi chiếc mũ.
- Xuzi! – anh nói bằng một giọng tuyệt vọng và sung sướng đến cực độ - cô lính Xuzi! Cô bé của anh! Anh là Giăng Ecnet Samet đây, cái anh binh nhì ở trung đoàn thuộc địa số Hai mươi bảy đã đưa em về cho mụ bác gái tởm lợm ở Ruăng đấy. Em bây giờ xinh quá đi thôi! Tóc em chải mới khéo nữa chứ! Còn anh, cái thằng lính quèn này thì chẳng biết c1ch chải cho em.
- Giăng! - thiếu phụ kêu lên, đâm bổ tới ôm lấy cổ anh và khóc. – Giăng, anh vẫn tốt như xưa. Em còn nhớ hết mà!
- Ồ rõ vớ vẩn! – Samet lầu bầu trong miệng. – Lòng tốt của anh thì lợi lộc gì cho ai. Có chuyện gì đã xảy ra với em vậy, em gái bé nhỏ của anh?
Samet kéo Xuyzan lại gần mình và làm cái việc mà anh không dám làm trước kia ở Ruăng: anh vuốt ve và hôn lên mái tóc óng ả của nàng. Rồi anh vội lánh ra, sợ Xuyzan ngửi thấy mùi hôi của chuột cống trên áo ngoài của anh. Nhưng Xuyzan lại càng nép chặt vào vai anh hơn.
- Có chuyện gì vậy, em bé nhỏ của anh? – Samet bối rối nhắc lại.
Xuyzan không trả lời. Nàng không nén được tiếng nức nở. Samet hiểu rằng lúc này chưa nên hỏi nàng chuyện gì hết.
- Anh có một cái hang ở chỗ tường thành. – Samet vội vã nói – Hơi xa đây một chút. Tất nhiên ở nhà chẳng có gì hết, nhẵn như chùi. Nhưng được cái có thể hâm nước cho nóng và nằm ngủ trên giường. ở đó em có thể tắm táp và nghỉ ngơi. Và nói chung em muốn ở bao nhiêu lâu tùy thích.
Xuyzan ở nhà Samet năm ngày. Năm ngày ấy một mặt trời kỳ lạ cất lên trên thành Pari. Hết thảy mọi căn nhà, kể cả những nhà cũ nhất, ám khói, tất cả những khu vườn và thậm chí cả cái hang của Samet nữa đều rực rỡ trong những tia sáng của vừng thái dương ấy như là một vật báu.
Ai chưa từng được xúc động với hơi thở nhè nhẹ của thiếu nữ trong giấc ngủ, người đó chưa thể hiểu thế nào là dịu dàng. Môi nàng tươi hơn cả những cánh hoa ẩm ướt và những hàng mi của nàng lấp lánh những giọt lệ đêm.
phải, những gì đã xảy ra với Xuyzan quả đúng như Samet dự đoán. Người tình của nàng - một diễn viên trẻ - đã phụ nàng. Nhưng năm ngày Xuyzan sống bên Samet đã đủ để cặp tình nhân làm lành với nhau.
Samet tham dự vào việc hòa giải đó. Anh phải mang thư của Xuyzan lại cho anh chàng diễn viên và đã dạy cho gã điển trai đáng ngán nọ một bài học về phép lịch sự khi gã định dúi vào tay anh vài xu tiền thưởng.
Sau đó ít lâu anh chàng diễn viên đáp xe ngựa đến tìm Xuyzan. Và đâu lại vào đó: một bó hoa, những cái hôn, tiếng cười qua nước mắt, lời xin lỗi và dáng vô tư ngượng ngập.
Khi đôi bạn trẻ lên đường, Xuyzan vội vã nhảy lên xe, nàng quên cả từ biệt Samet. Liền đó nàng sực nhớ ra, đỏ mặt và ngượng ngùng đưa tay cho anh.
- Em đã chọn lấy cuộc sống theo ý em, anh chỉ còn biết chúc em hạnh phúc - cuối cùng Samet mới lầu bầu nói.
- Em chưa biết rồi sẽ ra sao? – Xuyzan trả lời và mắt nàng ngấn lệ.
- Em băn khoăn như vậy thực là vô ích, em bé nhỏ của anh ạ! – anh chàng diễn viên trẻ dài giọng và nhắc lại – Em bé xinh đẹp của anh.
- Giá có ai tặng em một bông hồng vàng! – Xuyzan thở dài – Cái đó chắc chắn sẽ mang lại cho em hạnh phúc. Em vẫn nhớ câu chuyện anh kể trên tàu, anh Giăng ạ!
- Biết đâu đấy! – Samet trả lời – Nhưng dù sao thì người sẽ mang bông hồng vàng đến cho em cũng chẳng phải là cái anh chàng quý phái này đâu. Em tha lỗi cho anh, anh là một thằng lính. Anh không ưa bọn công tử bột.
Hai người trẻ tuổi đưa mắt cho nhau. Gã diễn viên nhún vai. chiếc xe chuyển bánh.

Thường thường cứ hết ngày là Samet đổ đi tất cả các rác rưởi mà anh quét dọn ở các xưởng thủ công. Nhưng sau lần gặp Xuyzan anh thôi không đổ bụi ở những cửa hiệu kim hoàn đi nữa. anh giấu giếm bỏ chúng vào một cái túi và mang về lều mình. Hàng xóm cho rằng anh chàng hốt rác nọ đã trở thành “ngẩn ngơ”. Hiếm ai biết rằng trong bụi đó có chứa một ít bột vàng, bởi vì những người thợ kim hoàn khi làm việc thế nào cũng làm hao đi một ít kim loại quý đó.
Samet quyết định sẽ sàng bụi lấy vàng, đúc thành một thoi nhỏ và dùng nó đánh thành một bông hồng vàng mang lại hạnh phúc cho Xuyzan. Mà rất có thể, như mẹ anh đã nói, nó còn mang lại hạnh phúc cho nhiều người bình thường khác nữa. Biết đâu đấy! Anh quyết không gặp lại Xuyzan khi bông hồng chưa được làm xong.
Samet không kể cho ai nghe chuyện đó. Anh sợ bọn cảnh sát và nhà cầm quyền. Ai mà biết được bọn quan tòa nhiễu sự sẽ giở trò gì. Chúng có thể buộc anh tội ăn cắp, tống anh vào tù và lấy mất số vàng anh có. Dù sao vàng cũng chẳng phải của anh.
Trước khi đăng lính, Samet là cố nông trong trang trại của một ông mục sư nông thôn và vì thế anh biết sàng sảy. Những hiểu biết đó đối với anh bây giờ hóa ra lại có ích. Anh nhớ rằng khi quạt lúa mì thì những hạt nặng rơi xuống đất còn bụi thì bị gió cuốn đi.
Samet làm một cái quạt gió nho nhỏ và đêm đêm, ở sân nhà, anh quạtbụi lấy được trong các hiệu kim hoàn. Anh hồi hộp mãi cho đến lúc trông thấy lờ mờ một lớp bụi vàng lấp lánh trên ngăn gỗ.
Đến lúc có đủ bụi vàng để đánh đủ một thỏi thì đã mất nhiều thời gian lắm. Nhưng Samet chưa đưa cho thợ kim hoàn đánh bông hồng vàng vội.
Không phải Samet thiếu tiền thuê thợ: bất cứ người thợ kim hoàn nào cũng bằng lòng đánh bông hồng để lấy tiền công bằng một phần ba thỏi vàng và như thế họ cũng đã hài lòng lắm rồi.
Duyên do không phải vì thế. Càng ngày, giờ gặp gỡ Xuyzan càng gần. Nhưng không biết từ lúc nào, Samet bắt đầu sợ cái giờ ấy.
Tất cả sự trìu mến từ lâu dồn nén trong đáy lòng, Samet muốn dành cho nàng, cho Xuzi. Nhưng ai cần đến cái trìu mến của con người tàn tạ và dị dạng kia chứ! Samet từ lâu đã nhận thấy rằng gặp anh người ta chỉ muốn bỏ đi cho nhanh và quên phứt cái bộ mặt hốc hác xám ngoét với làn da chảy xệ và đôi mắt chòng chọc của anh.
Trong túp lều của Samet có một mảnh gương vỡ. Họa hoằn lắm Samet mới soi gương, nhưng hễ cứ soi vào là anh văng một câu chửi tục và quăng vội mảnh gương đi. Thà đừng nhìn thấy mình còn hơn, cái thân hình gớm ghiết lê lết trên đôi chân tê thấp khập khiểng.
Cuối cùng, khi đã đánh xong bông hồng, Samet mới biết Xuyzan đã rời Pari đi Mỹ từ một năm trước, và theo người ta nói, nàng đi hẳn không về nữa. không ai có thể cho Samet biết địa chỉ của nàng.
Thoạt đầu, Samet thậm chí còn thấy nhẹ hẳn người. Nhưng rồi tất cả sự chờ đợi cuộc gặp gỡ đầm ấm và thanh thản với Xuyzan không hiểu sao đã biến thành một mảnh sắt rỉ. mảnh sắt nhọn ấy mắc trong lồng ngực anh, ngay ở bên tim và Samet cầu trời cho nó đâm thẳng vào trái tim ốm yếu ấy đi, cho tim anh vĩnh viễn ngừng đập.
Samet bỏ việc quét dọn trong các xưởng kim hoàn. Anh nằm trong túp lều của mình mấy hôm liền, quay mặt vào tường. Anh im lặng và chỉ mỉm cười một lần, đưa cánh tay áo cũ lên mắt. Không ai nhìn thấy anh khóc. Hàng xóm láng giềng cũng chẳng có ai sang thăm anh: người nào cũng có chán vạn cái lo âu bận bịu của mình.
Chỉ có một người theo dõi Samet. Đó là người thợ bạc đứng tuổi đã đánh từ thỏi vàng ra một bông hồng rất tinh xảo. Cùng trên một cành, bên cạnh bông hoa, người thợ bạc đánh thêm một nụ hồng bé nhỏ và nhọn hoắt.
Người thợ bạc đến thăm Samet nhưng không mang thuốc đến cho anh. Ông ta cho rằng có mang cũng vô ích.
Thực thế, Samet đã lặng lẽ qua đời, trong một lần đến thăm của người thợ bạc. Ông ta nâng đầu anh thợ quét rác lên, lấy ở dưới cái gối xám ra bông hồng vàng bọc trong cái nơ nhàu nát màu xanh, khẽ khép cái cái cánh cửa cọt kẹt lại, rồi thong thả đi ra. Từ chiếc nơ xông lên mùi chuột.
Lúc đó vào cuối thu. Màn đêm rung động vì gió và vì những đốm lửa nhấp nháy. Người thợ bạc nhớ đến nét đổi thay trên mặt Samet sau khi anh chết. Bộ mặt trở nên nghiêm nghị và trầm tĩnh. Người thợ bạc thấy niềm cay đắng hiện trên mặt anh còn tuyệt đẹp nữa là khác.
“Cuộc sống không cho người ta cái gì thì cái chết lại đem cho người ta cái ấy”, người thợ bạc vốn quen với những ý nghĩ rẻ tiền nghĩ như vậy và thở dài.
Ít lâu sau người thợ bạc đem bông hồng vàng nọ bán cho một nhà văn đã có tuổi ăn mặc lôi thôi lốc thốc, và theo nhận xét của bác thợ, nhà văn này cũng chẳng giàu có gì cho lắm để có thể cho phép mình mua một vật đắt tiền đến thế.
Hẳn câu chuyện về bông hồng vàng do người thợ bạc kể lại cho nhà văn đã đóng vai trò quyết định trong việc mua bán nọ. Nhờ những ghi chép của nhà văn già mà mới có người biết được câu chuyện đau buồn trong đời người cựu chiến binh trung đoàn thuộc địa thứ hai mươi bảy là Giăng Samet.
Trong những ghi chép của ông, nhà văn đại khái có viết:
“Mỗi phút, mỗi lời tình cờ được nói ra và mỗi cái nhìn vô tình ta bắt gặp, mỗi ý nghĩ sâu sắc hoặc vui đùa, mỗi rung động thầm lặng của con tim, cũng như cả đến một bông xốp của hoa dương đang bay hay lửa sao trong một vũng nước đêm - tất cả những cái đó đều là những hạt rất nhỏ của bụi vàng.

-Pauxtôpxki-

**************** Hãy cùng chia sẻ với bạn bè bằng cách ****************

Copy đường link dưới đây gửi đến nick yahoo bạn bè!

Bài Viết Ngẫu Nhiên:
  • Đề thi thử trường Lương Thế Vinh
  • IT tuyển vợ
  • Thủ thuật máy tính số 17 (Thứ hai 16-6-2008)
  • TRIẾT LÝ KINH DOANH CỦA ÔNG CHỦ CHUỖI KHÁCH SẠN FOUR SEASONS
  • PES 2009 Việt hóa
  • Corel VideoStudio Pro X2 - Biên tập và chỉnh sửa Video chuyên nghiệp
  • [Icon-Img] International Space Station Imagery
  • Share Code Tin Tức Kênh14.Vn
  • Cười cười :D
  • Portable Firefox 3.7a1pre (EN)

  • Hiện chưa có lời bình nào cho bài viết này.

    Gởi Ý Kiến
    Hình vui
    [smile] [confused] [cool] [cry]
    [eek] [angry] [wink] [sweat]
    [lol] [stun] [razz] [redface]
    [rolleyes] [sad] [yes] [no]
    [heart] [star] [music] [idea]
    Có thể dùng BBCode
    Tự nhận Link
    Hiển thị Smilies
    Ẩn comment
    Tài khoản:   Mật khẩu:   Đăng Ký?